top of page
​AD

Nguồn Gốc Dân Tộc Kinh ở Việt Nam: Bốn Làn Sóng Người Hán Nhập Cư

Lịch sử của dân tộc Kinh (京族) Việt Nam rất giống với thời kỳ người Hán (汉人) xâm chiếm miền nam Trung Quốc, tức là phía nam sông Dương Tử (长江), có thể được chia thành bốn làn sóng nhập cư lớn của người Hán.

Lễ đón dâu của người Việt ở Nam Bộ. Ảnh: Trần Duy Tình

Người Hán có tổ tiên chung là người Hoa Hạ (華夏), xuất phát tên gọi liên minh thời đại đồ đá mới của các bộ lạc nông nghiệp, những người sống dọc theo đồng bằng trung tâm xung quanh giữa và hạ lưu sông Hoàng Hà (黃河) ở phía bắc Trung Quốc. Các bộ lạc này là tổ tiên của người Hán hiện đại đã khai sinh ra nền văn minh Trung Quốc (中国).


Ngoài ra, thuật ngữ Hoa Hạ được sử dụng riêng biệt để đại diện cho một nhóm dân tộc “văn minh” trái ngược với những người được coi là người man di “mọi rợ” xung quanh họ.



Người Hán có lịch sử chung sống trên một lãnh thổ của tổ tiên cổ xưa, bắt nguồn sâu xa với nhiều truyền thống văn hóa và phong tục khác nhau, đã trải qua công cuộc xâm lấn và mở rộng liên tục xuống miền Nam Trung Quốc nơi là lãnh thỗ sinh sống của những tộc người Bách Việt (百越) trong hai thiên niên kỷ qua.


Văn hóa Hoa Hạ lan rộng về phía nam từ vùng trung tâm của nó trong lưu vực sông Hoàng Hà, tiếp thu nhiều nhóm dân tộc không phải người Trung Quốc đã dần bị Hán hóa trong nhiều thế kỷ tại các điểm khác nhau trong lịch sử Trung Quốc.


Thuật ngữ người Hán xuất hiện lần đầu vào thời Nam - Bắc triều để phân biệt với 5 nhóm du mục từ phương Bắc tràn xuống, đây là tên gọi lấy cảm hứng từ nhà Hán triều đại được coi là một trong những triều đại vĩ đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, vì nó khiến Trung Quốc trở thành cường quốc khu vực Đông Á và tăng cường phần lớn ảnh hưởng của nó đối với các nước láng giềng trong khi cạnh tranh với Đế quốc La Mã về dân số và địa lý.


Uy tín và sự nổi bật của nhà Hán đã ảnh hưởng đến nhiều người Hoa Hạ cổ đại bắt đầu tự nhận mình là “Dân tộc Hán”. Cho đến ngày nay, người Hán đã lấy tên dân tộc của họ từ triều đại này và chữ viết của Trung Quốc được gọi là “chữ Hán”.



Làn sóng thứ nhất: Lập quốc (214 - 110 TCN)


Làn sóng người Hán đầu tiên xuất hiện khi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng (秦始皇) nhà Tần chinh phục Lĩnh Nam (嶺南) (Quảng Đông, Quảng Tây, miền Bắc Việt Nam) vào năm 214 trước Công nguyên bằng cách gửi 500.000 quân và 30.000 nữ phu người Hán đi kèm.


Tranh vẽ người Hán gặp người Bách Việt.

Triệu Đà (趙佗) là phó tướng nhà Tần được cử sang làm người đặt ách thống trị của Trung Quốc lên Việt Nam. Ông là người gốc Hán sinh ra ở tỉnh Hà Bắc (河北). Khi nhà Tần sụp đổ, ông nắm lấy cơ hội thành lập vương quốc độc lập của riêng mình vào năm 204 trước Công nguyên mà ông đặt tên là Nam Việt (南越) hay còn gọi là Nanyue. Ông khuyến khích các cuộc hôn nhân khác chủng tộc giữa binh lính người Hán và phụ nữ Tráng-Đồng (Tai-Kadai) bản địa.


Tượng Triệu Đà.

Trong ‘Đại Việt sử ký’ (大越史記) do nhà sử học hoàng gia đời nhà Trần Lê Văn Hưu (黎文休) viết năm 1272, Nam Việt được xem là điểm khởi đầu hợp pháp của một vương quốc chính thống và Triệu Đà được mô tả là vị hoàng đế đầu tiên của Việt Nam.



Làn sóng thứ hai: Tỉnh của Trung Quốc (111 TCN - 938)


Làn sóng thứ hai bắt đầu khi nhà Hán sáp nhập Nam Việt vào năm 111 trước Công nguyên và Việt Nam trở thành quận Giao Chỉ (交趾) của Trung Quốc. Làn sóng này lớn hơn nhiều và có xu hướng đồng hóa về mặt xã hội và văn hóa hơn làn sóng đầu tiên chỉ mang tính chất quân sự.


Tây Quang là thống đốc quận Giao Chỉ từ năm 1 - 25. Khi Tây Quang từ chối công nhận việc Vương Mãng (王莽) soán ngôi vua Hán Bình Đế (漢平帝) nhà Hán (từ năm 9 - 23), quận Giao Chỉ đã trở thành nơi tị nạn cho các đại thần và thương gia người Hán trú ẩn.


Vương Mãng soán ngôi hoàng đế nhà Hán.

Hai chị em người dân tộc Thái là Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳) nổi dậy chống lại nhà Hán vào năm 40 và cai trị phần lớn miền Bắc Việt Nam từ năm 40 - 43.


Tượng hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Mã Phục Ba (馬伏波) được cử đi dẹp loạn vào năm 43. Sau khi cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng bị dập tắt, Mã Viện (马援) đã xử tử hàng ngàn quân lính. Nhiều binh sĩ người Hán vẫn ở lại khu vực này để đảm bảo sự thống trị của Trung Quốc trên các vùng đất xung quanh Hà Nội.


Tượng Mã Viện trên đỉnh Phục Ba, Quế Lâm, Quảng Tây.

Hoàng đế Quang Vũ (光武皇帝) (25 - 57) của nhà Hán thậm chí còn cử những người Hán từ các vùng khác của Trung Quốc đến định cư để làm loãng dân tộc Thái nổi loạn ở Việt Nam - một chiến thuật vẫn được sử dụng cho đến ngày nay ở Tây Tạng và Tân Cương.


Có ất nhiều sự nhập cư ồ ạt của người Hán vào thời nhà Đường (618 - 907) và đến cuối nhà Đường và sau khoảng 1.100 năm nhập cư, người Hán đã trở thành nhóm dân tộc lớn dọc theo đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam.



Làn sóng thứ ba: Độc lập khỏi Trung Quốc (939 - 1857)


Làn sóng thứ ba bắt đầu sau sự sụp đổ của nhà Đường gây ra nhiều cuộc nội chiến và Trung Quốc bị chia cắt thành nhiều vương quốc nhỏ hơn, một trong số đó là Nam Hán (917 - 971) đã thống trị Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam.


Ngô Quyền (吳權), con rể của Tiết độ sứ tỉnh Nam Hán (南漢) Dương Đình Nghệ (楊廷藝), đã quyết định thành lập vương quốc của riêng mình từ triều đại Nam Hán (917 - 971), dấy quân khởi nghĩa và chiến đấu thành công chống lại quân Nam Hán trong trận chiến Sông Bạch Đằng năm 938. Tổ tiên của Ngô Quyền bắt nguồn từ tỉnh Hà Bắc và ông thực ra là người Hán.


Tình trạng này cũng giống như khi Triệu Đà lập vương quốc riêng gọi là Nam Việt từ thời nhà Tần (221 - 206 TCN). Nói cách khác, đây là cuộc đấu tranh quyền lực nội bộ giữa người Hán chứ không phải việc “đòi độc lập cho người Việt bản địa” như công chúng hiểu sai.


Trận chiến Bạch Đằng.

Tổ tiên của triều đại Hậu Lý (李朝) (1009 - 1225) có nguồn gốc từ tỉnh Hà Bắc khi Lý Thuần An (李淳安) du hành đến Việt Nam từ Phúc Kiến (福建) vào thế kỷ thứ 10. Lý Thuần An đã trốn thoát đến Phúc Kiến, nơi trú ẩn tạm thời, từ Hà Bắc sau khi cha ông là Lý Song (李崧) cùng với gần như toàn bộ thành viên trong gia đình ông bị hành quyết.


Tổ tiên của nhà Trần (1225 - 1400) có nguồn gốc từ tỉnh Phúc Kiến khi Trần Kinh (陳京) cùng với một số lượng lớn người Hán di cư đến Việt Nam trong thế kỷ 11. Họ Trần hay còn gọi là Tan (陳) là một trong 8 họ lớn của người Hán ở Phúc Kiến.


Các triều đại Hậu Lý và Trần khuyến khích người Hán nhập cư vào miền Bắc Việt Nam. Vào thời nhà Trần, hàng chục nghìn người Hán tị nạn, trong đó có binh sĩ nhà Tống đã trốn vào Việt Nam từ tay quân Mông Cổ xâm lược. Nhiều binh sĩ người Hán từ Phúc Kiến cũng trốn sang Lôi Châu (雷州) lân cận ở tỉnh Quảng Đông.


Chỉ huy quân sự Hoàng tử Trần Quốc Tuấn (陳國峻) lãnh đạo lực lượng tổng hợp gồm binh sĩ tị nạn nhà Tống như Triệu Trung (趙忠) và Hứa Tông Đạo (許宗道) và binh sĩ nhà Trần của Việt Nam chống lại cuộc xâm lược của quân Mông Cổ vào Việt Nam trong thời gian 1258 - 1288.


Trần Quốc Tuấn đánh quân Mông Cổ.


Tổ tiên của nhà Hồ (1400 - 1407) có nguồn gốc từ tỉnh Chiết Giang (浙江) khi Hồ Hưng Dật (胡興逸) đến vào thời Hậu Hán (後漢) (947 - 951).


Khi nhà Minh chiếm đóng Việt Nam vào năm 1407, nhiều người Kinh ở đồng bằng sông Hồng đã ủng hộ sự chiếm đóng của Trung Quốc trái ngược với những gì một số phương tiện truyền thông hiện đại tuyên bố. Vì vậy, Nguyễn Trãi (阮廌), người dân tộc Kinh, không còn cách nào khác là phải tranh thủ sự giúp đỡ của người Mường để trả thù nhà Minh vì đã bắt cha ông là Nguyễn Phi Khánh (阮飛卿) làm tù binh bị bắt sang Nam Kinh (南京) vốn là thủ đô của Trung Quốc.


Trong sử sách ‘Gia Định Thành Thông Chí’ (嘉定城通志) có ghi rằng nhiều người Hán tị nạn đã trốn sang Việt Nam sau khi người Mãn xâm lược Trung Quốc vào năm 1644. Tướng quân Nam Minh Dương Ngạn Địch (楊彥迪) trốn sang Việt Nam cùng gia đình và đội quân 3.000 người vào năm 1679. Con cháu của họ trở thành người Minh Hương (明鄉), một phân nhóm của dân tộc Kinh ngày nay.


Tướng Dương Ngạn Dịch, người khai triển vùng đất Mỹ Tho.

Vào năm 1802, hoàng đế Việt Nam Gia Long (嘉隆) hay còn gọi là Nguyễn Phúc Ánh (阮福映), người sáng lập triều Nguyễn, muốn đổi tên nước thành Nam Việt nhưng hoàng đế nhà Thanh không cho phép và thay vào đó đảo ngược lệnh sang Việt Nam để Việt Nam không thể tự nhận mình là người kế thừa vương quốc Hán Trung Hoa trước đó.


Trong thế kỷ 19, triều Nguyễn gọi người Kinh Việt Nam là Hán nhân (漢人), cùng dân tộc với người Hán; Hán Phong tục (漢風俗) ám chỉ phong tục người Kinh Việt; Hán Ngữ (漢語) ám chỉ tiếng Kinh Việt. Tất cả những điều này ngụ ý rằng trong thời gian đó, triều Nguyễn biết họ là người Hán gốc Hoa sinh ra ở Việt Nam chứ không phải người bản xứ.


Nếu người Kinh Việt thực sự “Hán hóa Việt” thì họ đã đổi tên nước là Văn Lang và đặt tên người dân là Lạc Việt.


Hoàng đế Gia Long.

Chính trong làn sóng thứ ba vào thời nhà Trần năm 1256, dân tộc Kinh đã được hình thành, xuất phát từ một từ tiếng Trung cổ có nghĩa là “kinh đô” của một đất nước.


Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng xung quanh là trung tâm di cư của người Hán. Vì vậy, thuật ngữ Kinh thực sự đề cập đến người Hán gốc Việt sống ở thủ đô.



Làn sóng thứ tư (1858 - 1945) - Châu Âu xâm lược


Tình trạng di cư lại gia tăng trong thời kỳ thuộc địa của Pháp (1858 - 1945) và sau Chiến tranh nha phiến (1856 - 1860) ở Trung Quốc.


Nhiều người miền Nam Trung Quốc từ Quảng Đông và Phúc Kiến đã trốn khỏi Trung Quốc sang Việt Nam (và cả các khu vực khác ở Đông Nam Á) do nghèo đói và chiến tranh ở Trung Quốc. Người Pháp khuyến khích những người nhập cư Trung Quốc này kích thích thương mại và công nghiệp ở Việt Nam.


Chiến tranh nha phiến của quân đội Pháp và Anh ở Trung Quốc.

Người Hán nhập cư vào Việt Nam vào cuối triều đại nhà Thanh (1850 - 1911) được gọi là người Hoa (華). Nhóm người Hoa này vẫn còn nhớ nguồn cội Trung Hoa của mình do mới di cư gần đây. Họ có thể nói nhiều thứ tiếng Trung Quốc khác nhau tùy theo phân nhóm Hán của họ nhưng ngôn ngữ chung của họ là tiếng Quảng Đông.


Sau khi cộng sản Bắc Việt tiếp quản miền Nam Việt Nam vào năm 1975, nhiều “thuyền nhân” người Hoa rời Việt Nam đi Pháp, Úc, Canada, Mỹ, và điều này đã làm giảm đáng kể số lượng người Hoa ở Việt Nam.


Thuyền nhân Việt Nam.


Hiện tượng nhóm phụ người Hán


Người Kinh chỉ là một nhóm nhỏ khác của người Hán giống như người Quảng Đông, người Phúc Kiến, người Khách Gia (客家), người Ngô (吴越) và người Giang Tây (江右) cũng di cư đến miền nam Trung Quốc do nhiều cuộc chiến tranh ở miền bắc Trung Quốc và trở thành dân tộc đa số ở miền nam Trung Quốc vào cuối triều đại nhà Đường.


Người Kinh Việt Nam không phải là “người bản xứ bị Hán hóa” như người ta thường nghĩ. Họ tổ chức các lễ hội của người Hán, thực hành tôn giáo và văn hóa người Hán, có tên tiếng Trung thực sự được thừa hưởng từ tổ tiên của họ ở Trung Quốc. Hơn nữa, người Kinh trước đây nói tiếng Trung An Nam là tiếng mẹ đẻ của họ.


Nói cách khác, hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn xảy ra ở các tỉnh khác ở miền Nam Trung Quốc mà Việt Nam là một phần của nó cho đến cuối đời Đường và khoảng 20 năm dưới thời nhà Minh.


Bốn làn sóng người Hán nhập cư trong khoảng 2.000 năm được gọi là người Kinh trong khi làn sóng người Hán nhập cư gần đây nhất vào thế kỷ 19 được gọi là người Hoa.


Người Kinh gốc Việt cũng giống như người Hán ở Đài Loan và Singapore, nơi họ chiếm đa số ở một quốc gia độc lập sau nhiều làn sóng di cư.


Thật không may, nguồn gốc thực sự của người Kinh đã bị nhầm lẫn với nguồn gốc của người Mường không liên quan.

bottom of page