top of page
​AD

Tục Kiêng Húy Của Người Việt và Hệ Lụy

Ở Việt Nam, kiêng húy là một truyền thống lâu đời có từ thời nhà Lý vào thế kỷ 11.


Kiêng húy (hay húy kỵ, kị húy hoặc tỵ húy) là việc tránh nói tên một số người, để tỏ ý tôn trọng trong xã hội, của các Triều đại Quân chủ chuyên chế ngày xưa và đã là một phần của xã hội loài người trong nhiều thế kỷ.


Vào thời nhà Lý, việc kiêng húy chủ yếu được thực hiện như một cách thể hiện sự cam kết của một người đối với các nguyên tắc Nho giáo và đề cao các giá trị đạo đức. Nó được coi là một cách để rèn luyện tính kỷ luật tự giác và duy trì trật tự xã hội. Do đó, việc kiêng húy được áp dụng đối với những cá nhân nắm giữ các vị trí quyền lực, chẳng hạn như quan chức chính phủ và học giả.



Những người vi phạm các quy tắc kiêng húy sẽ bị cấm thi cử, đánh phạt, tù tội; cao hơn là bị tru di tam tộc, cửu tộc. Nguy hại hơn nữa là cưỡng bức, làm biến dạng, lệch chuẩn ngôn ngữ Tiếng Việt.


Lệnh kiêng húy đầu tiên, được ban ra tháng 6/1232, đời Vua Trần Thái Tông. Nhà Trần biện lẽ ông Tổ nhà Trần là Trần Lý, nên tất cả những ai có họ, tên Lý đều phải đổi sang họ Nguyễn, nếu ai phạm sẽ bị tru di tam tộc.


Mục đích chính của lệnh này, là để quên đi, làm lu mờ Triều đại nhà Lý. Mặc cho trước đó, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, để lập nên Triều đại nhà Trần.



Kiêng húy một cách toàn diện


Ngày 20/4/1428, sau khi lên ngôi được 5 ngày, vua Lê Thái Tổ đã ban lệnh kiêng húy một cách toàn diện, bao gồm quốc húy, gia tộc kính húy và dân gian húy.


Đến Triều đại 13 đời Vua Nhà Nguyễn (1802 - 1945), việc kiêng húy đã trở thành quốc huý, quốc luật.


Như vậy, từ triều nhà Trần đến triều nhà Nguyễn, hiện đã ghi nhận được 40 lệnh kiêng húy. Riêng triều Nguyễn có tới 22 lệnh, trong đó Vua Thiệu Trị chỉ trong 5 năm, đã ra 8 lệnh.


Theo thống kê có được, triều nhà Nguyễn kiêng húy đã lên tới nhiều nhất là 531 chữ.


Sau đây là vài phác thảo về kiêng húy dưới triều nhà Nguyễn.



Thay đổi niên hiệu các triều vua


Vua Thiệu Trị (1807 - 1847), có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, nên niên hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông… phải đổi thành Lý Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, Lê Thánh Tôn…


Thay đổi tên dòng họ


Vị chúa đầu tiên, trong 9 chúa triều Nguyễn là Nguyễn Hoàng (1525 - 1613), để kiêng húy, họ Hoàng phải đổi thành họ Huỳnh.


Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714 - 1765), có hiệu Vũ Vương (Nguyễn Thế Tông Vũ Vương), nên họ Vũ phải đổi thành họ Võ.


Thay đổi tên danh nhân


Vua Tự Đức (1829 - 1883) có tên là Nguyễn Phúc Thì và Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, nên Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), phải đổi thành Ngô Thời Nhiệm.


Hay như, để tránh tên chúa Nguyễn Phúc Chu, tên của Phan Chu Trinh (1872 - 1926), phải đổi thành Phan Châu Trinh…



Thay đổi địa danh


Quý phi Hồ Thị Hoa (mẹ vua Thiệu Trị), kiêng húy, phải đổi trấn/tỉnh Thanh Hoa thành Thanh Hoá, chợ Đông Hoa (Huế) thành chợ Đông Ba, Mộ Hoa (Quảng Ngãi) thành Mộ Đức, Kỳ Hoa (Hà Tĩnh) thành Kỳ Anh, Hoa Khê (Phú Thọ) thành Cẩm Khê…


Chúa Nguyễn Phúc Thái (1649 - 1691), tức chúa Nghĩa (Nguyễn Anh Tông Nghĩa Vương), kiêng húy nên đổi tên Dinh Quảng Nghĩa thành Dinh Quảng Ngãi.


Vua được coi là thiên tử, nên Chùa Thiên Mụ được đổi thành Chùa Linh Mụ, huyện Thiên Lộc (Hà Tĩnh) thành Can Lộc, huyện Thiên Bản (Nam Định) thành Vụ Bản, huyện Thiên Thi (Hưng Yên) thành Ân Thi…


Cái nghiệt ngã nhất của Triều Nguyễn là mỗi vị vua phải kiêng 5 tên: danh tự (tên cha mẹ đặt), ngự danh (tên khi lên làm Vua), niên hiệu (tên Triều đại), thụy hiệu (tên khi chết), miếu hiệu (tên thờ trong Miếu).


Cùng với cả Kiêng húy người thân trong gia tộc, nên Triều Nguyễn có số lượng chữ kiêng húy nhiều nhất. Có thể kể lược thêm: Đỗ/Đậu; Chu/Châu; Phúc/Phước; Sinh/Sanh; Chính/Chánh; Hồng/Hường; Cảnh/Kiểng; Kính/Kiếng; Thái/Thới; Lĩnh/Lãnh; Ánh/Yếng; Hoa/Huê; Hoa/Bông; Thì/Thời; Đường/Đàng; Phụng/Phượng; Chu/Châu; San/ Sơn; Tuyền/Toàn, Chân/Chơn; Đảm/Đởm; Nguyên/Ngươn...



Việc thực thi nghiêm ngặt việc kiêng húy này có lợi ích của nó, vì nó giúp duy trì ý thức trật tự và kỷ luật trong xã hội. Nó cũng phục vụ như một cách để nâng cao địa vị của những người thực hành nó vì được coi là những cá nhân ngay thẳng và có đạo đức. Tuy nhiên, theo năm tháng, việc kiêng húy bắt đầu trở nên cứng nhắc và giáo điều hơn, gây bất an cho những người phải tuân theo các quy tắc của nó.


Một trong những hậu quả quan trọng nhất của việc kiêng húy là áp lực buộc các cá nhân phải tuân theo một tiêu chuẩn hành vi và ngôn ngữ nhất định. Điều này đặc biệt đúng khi nói đến tiếng Việt, vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo. Những người đi chệch khỏi ngôn ngữ tiêu chuẩn bị coi là vi phạm các quy tắc kiêng khem và thường bị xấu hổ hoặc bị trừng phạt vì điều đó.


Hơn nữa, việc kiêng húy cũng dẫn đến việc loại trừ một số nhóm người nhất định, chẳng hạn như phụ nữ và tầng lớp thấp hơn, khỏi việc tham gia vào một số hoạt động nhất định hoặc nắm giữ các vị trí quyền lực. Điều này càng làm kéo dài thêm sự bất bình đẳng xã hội và hạn chế cơ hội cho những nhóm bị thiệt thòi này.


Khi Việt Nam hướng tới một xã hội hiện đại hơn, việc tuân thủ nghiêm ngặt việc kiêng húy bắt đầu giảm dần. Việc kiêng húy không còn được coi là phù hợp hoặc cần thiết trong thời đại đang thay đổi. Tuy nhiên, một số tàn tích của truyền thống này vẫn tồn tại, đặc biệt là trong hệ thống giáo dục nơi học sinh phải tuân thủ các tiêu chuẩn nhất định về hành vi và ngôn ngữ.



Trong những năm gần đây, đã có những lời kêu gọi đánh giá lại việc thực hành kiêng húy và hậu quả của nó. Nhiều ý kiến cho rằng đó là một truyền thống đã lỗi thời, áp bức, cần phải điều chỉnh cho phù hợp với những giá trị và quy luật hiện đại của xã hội. Điều này bao gồm việc cho phép các cá nhân tự do thể hiện bản thân và sử dụng ngôn từ theo cách tự nhiên đối với họ mà không sợ bị trừng phạt vì đi chệch khỏi tiêu chuẩn.


Từ đó, chúng ta cần nhận thức được rằng kiêng húy là một tàn dư xưa cũ có một lịch sử lâu dài và phức tạp, mang nặng quan niệm duy tâm. Mặc dù nó có thể đã phục vụ một mục đích nào đó trong quá khứ nhưng điều quan trọng là phải đánh giá lại sự phù hợp của nó trong thời đại ngày nay và thực hiện những điều chỉnh cần thiết để đảm bảo rằng nó không cản trở sự tiến bộ của xã hội.


Vì thế, trong thời đại ngày nay, cần phải có những điều chỉnh, những sử dụng, vận dụng hợp lý, để phù hợp với quy luật vận động chính chuyên của đời sống. Việc kiêng húy không nên là gánh nặng hay nguồn gốc của sự bất an, mà là sự lựa chọn cá nhân được tôn trọng và quý trọng.

bottom of page